Viêm gan B (phần 2)


● Kháng thể bề mặt của virus (viết tắt là anti-HBs) – Anti-HBs giúp hệ miễn dịch của cơ thể tấn công virus viêm gan B. Protein này thường xuất hiện trong máu ở người đã khỏi bệnh hoặc đã tiêm vaccine viêm gan B. Protein này chứng tỏ người đó được bảo vệ khỏi viêm gan B.

● Kháng nguyên lõi virus (viết tắt là  anti-HBc) – Anti-HBc thường xuất hiện trong thời gian bị nhiễm virus và tồn tại trong máu kể cả sau khi khỏi bệnh. Nó không xuất hiện ở người được tiêm vaccine viêm gan B.

● Kháng nguyên e của virus (viết tắt là HBeAg) – HBeAg là 1 protein mà sự xuất hiện của nó chứng tỏ virus viêm gan B đang liên tục nhân lên. Sự xuất hiện của nó thường cho thấy có 1 lượng lớn virus trong máu và nguy cơ lây bệnh cao.

● Kháng thể e của virus (viết tắt là anti-HBe) – Anti-Hbe cho thấy sự virus nhân lên của virus bắt đầu chậm lại nhưng ở một số dạng của virus viêm gan B, virus tiếp tục nhân lên với tốc độ cao và lượng virus trong máu rất lớn.

● DNA của virus (viết tắt là HBV DNA) – HBV DNA là thành phần gen của virus viêm gan B,  HBV DNA không được tìm thấy trong máu khi một người khỏi bệnh. HBV DNA là xét nghiệm đo lượng virus có trong máu. Các bác sĩ sử dụng xét nghiệm này để quyết định việc điều trị thuốc kháng virus cho bệnh nhân và theo dõi đáp ứng điều trị.

● Các xét nghiệm khác – Các xét nghiệc khác phản ánh tình trạng hoạt động của gan nhưng không đặc hiệu cho viêm gan B. Ví dụ như các xét nghiệm men gan (ALT và AST),bilirubin, alkaline phosphatase, albumin, thời gian prothrombin và số lượng tiểu cầu.

Sinh thiết gan không được chỉ định thường xuyên trong chẩn đoán viêm gan B. Sinh thiết gan được chỉ định để theo dõi tổn thương gan ở bệnh nhân viêm gan mạn, giúp quyết định điều trị khi cần và tìm các dấu hiệu của sơ gan và ung thư gan. Các thông tin về sinh thiết gan sẽ được trình bày trong một bài riêng.

TÔI CÓ BỊ VIÊM GAN B MẠN? — Nguy cơ tiến triển thành viêm gan B mạn phụ thuộc vào tuổi bạn nhiễm virus. Viêm gan mạn xuất hiện ở 90% trẻ em nhiễm virus lúc sinh, 20-50% trẻ em nhiễm virus từ 1-5 tuổi, và ít hơn 5% ở người nhiễm virus viêm gan B khi trưởng thành.

Nguy cơ xuất hiện các biến chứng viêm gan B mạn tùy thuộc vào tốc độ nhân lên của virus và hệ miễn dịch trong việc kiểm soát virus. Uống rượu, mắc viêm gan C mạn hoặc mắc HIV (virus gây nên bệnh AIDS) kèm theo viêm gan B làm tăng nguy cơ biến chứng.

ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN B — Điều trị đặc hiệu viêm gan B cấp thường không thực sự cần thiết vì ở khoảng 95% người lớn, hệ miễn dịch có thể dọn sạch được virus trong vòng 6 tháng. 

Ở người bị viêm gan mạn, thuốc kháng virus có thể được khuyên dùng nhằm làm giảm hoặc đảo ngược tình trạng tổn thương gan và ngăn ngừa các biến chứng lâu dài của viêm gan B.

Điều trị kháng virus — Nhiều loại thuốc kháng virus được dùng để điều trị viêm gan B. Không phải tất cả mọi người đều cần điều trị ngay lập tức. Nếu bạn không cần điều trị ngay lập tức, bạn sẽ được theo dõi để xem viêm gan có trở nên họa động không (điều này đồng nghĩa với việc bắt đầu liệu pháp điều trị kháng virus).

Một khi bắt đầu điều trị, bạn sẽ được làm xét nghiệm máy thường xuyên để xem đáp ứng điều trị và phát  hiện các tác dụng phụ hoặc tình trạng kháng thuốc. Việc theo dõi sẽ tiếp tục ngay cả khi kết thúc điều trị để phát hiện các dấu hiệu nếu như tình trạng nhiễm virus quay trở lại.

Lamivudine — Lamivudine (Epivir-HBV®) là thuốc có hiệu quả làm giảm hoạt động của virus viêm gan B và tình trạng viêm gan tiến triển. Thuốc an toàn ở bệnh nhân suy gan và việc điều trị lâu dài có thể làm giảm nguy cơ suy gan và ung thư gan.

Lamivudine được dùng đường uống thường với liều 100 mg/ngày. Vấn đề thường gặp của lamivudine là tình trạng kháng thuốc của virus viêm gan B (liên quan đến một đột biến gen YMDD) thường xuất hiện ử người dùng thuốc kéo dài. Các thuốc khác ít gây ra tình trạng kháng thuốc.

Adefovir — Adefovir (Hepsera®) là thuốc được lựa chọn thay thế đầu tiên cho người nhiễm virus viêm gan B họa động và có tổn thương gan tiến triển. Ưu điểm của adefovir so với lamivudine là tình trạng kháng adefovir ít xảy ra hơn. Thêm vào đó, adefovir có thể ức chế virus viêm gan B kháng lamivudine.

Adefovir dùng đường uống với liều 10 mg/ngày, trong ít nhất 1 năm. Phần lớn bệnh nhân sẽ cần được điều trị kéo dài để duy trì việc kiểm soát virus viêm gan B. Adefovir là thuốc kháng virus yếu và tình trạng kháng thuốc cũng xuất hiện theo thời gian. Các thuốc kháng virus mạnh hơn sẽ được sử dụng.

Entecavir — Entecavir (Baraclude®) là thuốc kháng virus mạnh hơn lamivudine và adefovir. Tình trạng kháng entecavir không thường gặp ở người chưa từng điều trị thuốc kháng virus nhưng có thể gặp ở 50% những người từng dùng lamivudine.

Entecavir dùng đường uống với liều 0.5 mg/ngày ở các bệnh nhân chưa điều trị trước đo và 1.0 mg/ngày ở các bệnh nhân có kháng lamivudine. Phần lớn bệnh nhân cần được điều trị kéo dài để duy trì việc kiểm soát virus viêm gan B.

Tenofovir — Tenofovir (Viread®) mạnh hơn adefovir. Tình trạng kháng tenofovir là rất hiếm. Tenofovir dùng đường uống với liều 300 mg/ngày. Tenofovir hiệu quả trong việc ức chế virus viêm gan B có kháng lamivudine, telbivudine, hoặc entecavir. Tenofovir không có hiệu quả ở các bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B kháng adefovir.

Telbivudine — Telbivudine (Tyzeka®) mạnh hơn lamivudine và adefovir. Kháng telbivudine thường gặp và virus viêm gan B kháng lamivudine thì cũng kháng với telbivudine. Telbivudine dùng đường uống với liều 600 mg/ngày. Các thuốc khác có thể được sử dụng mà ít gây kháng thuốc.

Interferon-alpha — Interferon-alpha là biện pháp điều trị thích hợp ở bệnh nhân viêm gan B mạn có tình trạng hoạt động của virus, viêm gan tiến triển và không có xơ gan. Cả hai loại interferon thông thườngvà peg-interferon đều được sử dụng tại Mỹ.

Interferon-alpha có thể được cân nhắc ở các bệnh nhân trẻ không có bệnh gan tiến triển và không có mong muốn điều trị kéo dài. Interferon-alpha không phù hợp ở bệnh nhân xơ gan có suy gan hoặc người mắc viêm gan sau ghép gan.

Interferon được dùng trong thời gian có hạn. Peginterferon, interferon tác dụng kéo dài được dùng 1 lần/tuần, trong vòng 1 năm. Điều này đối lập với các điều trị viêm gan khác khi thuốc dùng đường uống trong nhiều nằm cho đến khi có hiệu quả. Tình trạng kháng interferon hiện chưa được báo cáo.

Nhược điểm của interferon-alpha là thuốc phải dùng dạng tiêm và có thể gây ra nhiều tác dụng phụ.

Ghép gan — Ghép gan là lựa chọn duy nhất ở bệnh nhân xơ gan tiến triển. Ghép gan là một quá trình phức tạp, liên quan đến các xét nghiệm đắt tiền để đảm bảo một người là ứng viên tốt. Vì vậy, không phải tất cả bệnh nhân xơ gan đều đủ điều kiện ghép gan mà chỉ các bệnh nhân xơ gan tiến triển hoặc ung thư gan giai đoạn sớm và các trường hợp sức khỏe tốt và cso điều kiện kinh tế mới có trong danh sách chờ ghép. Do nguồn người cho gan có hạn nên không phải tất cả bệnh nhân ghép gan trong danh sách chờ sẽ được ghép.

Liên hệ (028) 7300 7115 hoặc 0813440448 để được tư vấn và đặt lịch khám chữa bệnh (không tính phí).

Tags: viêm gan B chẩn đoán viêm gan điều trị viêm gan ghép gan xuất hiện khỏi bệnh thời gian nhiễm virus virus trong thuốc kháng kháng virus bệnh nhân tình trạng hoạt động sinh thiết tiến triển biến chứng việc kiểm kiểm soát soát virus được dùng không phải trạng kháng kháng thuốc dùng đường đường uống liều ngày kháng lamivudine interferon alpha thường xuất hiện thuốc kháng virus nhiễm virus viêm việc kiểm soát kiểm soát virus tình trạng kháng trạng kháng thuốc dùng đường uống bệnh gan

Những tác hại ít biết của rau mồng tơi

Rau mồng tơi, ngoài giá trị làm thực phẩm còn có tính dược lý rất...

Nguyên nhân, cách điều trị nôn và buồn nôn ở người lớn

Mệt mỏi, sốt cao, cứng cổ hoặc nôn ra máu/ dịch màu nâu đen kèm...

Bí quyết trị ngủ ngáy, nghiến răng ban đêm

Nhiều người có những tật xấu khi ngủ như ngáy ngủ, nghiến răng gây ảnh...

Chứng phát ban là gì?

Chứng phát ban là gì? Phát ban là tình trạng rất phổ biến. Có tới...

Sai lầm 'chết người' khi ăn rau xanh cần loại bỏ ngay

Rau xanh là thực phẩm không thể thiếu trong thực đơn hàng ngày, tốt cho...

Vui lòng đợi...